24 tháng 6 2012

Phiên bản mới của ISBP/ What’s new on revised ISBP?

By Nguyễn Hữu Đức, facebook page

Cùng với UCP 600, ISBP 681 được xem như một cuốn cẩm nang không thể thiếu đối với các ngân hàng, các công ty xuất nhập khẩu, các chuyên gia logistics, các công ty bảo hiểm…  trong việc lập và kiểm tra chứng từ xuất trình theo thư tín dụng (L/C).

 Along with UCP 600, ISBP 681 is considered as the most essential guidebook to most of banks, trading companies, logistics specialists, insurance companies, etc. in respect of preparing and checking L/C documents.

Sau khi UCP 600  được thông qua vào tháng 10/2006, Ủy ban Ngân hàng ICC đã tiến hành sửa đổi ISBP 645 (Tập quán Ngân hàng Tiêu chuẩn Quốc tế về Kiểm tra Chứng từ theo L/C) để phù hợp với nội dung quy định của UCP 600. ISBP 681 đang được sử dụng hiện nay chính là bản sửa đổi từ ISBP 645. Quá trình sửa đổi tương đối ngắn và có phần vội vã nên sau gần hai năm áp dụng, ISBP 681, trong chừng mực nào đó,  đã bộc lộ nhiều thiếu sót và chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế về kiểm tra chứng từ theo L/C.  Đây chính là lý do mà Ủy ban Ngân hàng ICC, tại cuộc họp Dubai vào tháng 3/2009, đã quyết định sửa đổi ISBP 681.

After publishing UCP 600 in October 2006, ICC Banking Commission has been continuously amending International Standard Banking Practice for the Examination of Documents under Documentary Credits (ISBP) 645  in order to be of consistency with UCP 600. The prevailing ISBP 681 has been replacing the previous ISBP 645. Due to a fairly short and rushed duration of revision, ISBP 681 has been facing some mistakes; therefore, it does not meet conditions of practice in reality for nearly 2 years. By way of revision of UCP 600, ICC Banking Commission made a decision to revise ISBP 681 at the ICC Banking Commission meeting held in Dubai in March 2009.

Có thể còn quá sớm để nêu ra những điểm mới của ISBP vào thời điểm này bởi đây mới chỉ là bản dự thảo thứ ba (Dự thảo) và chắc chắn sẽ còn được các chuyên gia cũng như các ủy ban ICC quốc gia góp ý sửa đổi, bổ sung trước khi bản dự thảo cuối cùng chính thức được thông qua. Dự thảo có nhiều thay đổi so với ISBP 681. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này,  người viết xin được cung cấp các đồng nghiệp và người đọc quan tâm một số điểm mới của  ISBP tương lai mà các ngân hàng, các công ty xuất nhập khẩu, các chuyên gia logistics, các công ty bảo hiểm…  cần quan tâm.

 At the present, it’s too early to point out new amendments of the draft ISBP because this is the thirdly revised version which shall be further commented/ implemented by experts as well as the ICC Governing Committee before being officially published. There are key amendments on the draft ISBP in corresponding with ISBP 681. However, a writer would like to provide to readers and colleagues some revised articles of the future ISBP which shall be paid attention by banks, trading companies, logistics specialists, and insurance companies, etc.  

MỘT SỐ ĐIỂM MỚI LIÊN QUAN ĐẾN CÁC QUY ĐỊNH Ở PHẦN MỞ ĐẦU

 Phần mở đầu (Preliminary Considerations) của Dự thảo đề cập đến một số điều mà các bên cần cân nhắc liên quan đến yêu cầu phát hành và việc phát hành và sửa đổi L/C. Dự thảo bao gồm các quy định tương tự như ISBP 681 nhưng có sự thay đổi thứ tự các quy định cũng như một số nội dung.

Nếu như ISBP 681 chỉ quy định người yêu cầu phát hành L/C (người yêu cầu) phải chịu rủi ro về sự mơ hồ thể hiện trong chỉ thị phát hành và sửa đổi L/C, thì Dự thảo quy định bổ sung thêm trách nhiệm của ngân hàng phát hành (NHPH) phải bảo đảm rằng L/C và sửa đổi L/C do mình phát hành không được mơ hồ hay mâu thuẫn với các điều khoản của L/C. NHPH có thể tư vấn cho người yêu cầu, và nếu người yêu cầu không có chỉ thị ngược lại, thì NHPH có thể bổ sung hoặc phát triển chỉ thị đó theo cách cần thiết hoặc thích hợp để cho phép L/C hoặc sửa đổi L/C được sử dụng.

ISBP 681 quy định người yêu cầu phải hiểu rằng UCP 600 có các  Điều 3, 14, 9, 20, 21, 23, 24, 28(i), 30 và 31 giải thích các điều khoản mà theo cách đó có thể tạo ra những kết quả không mong đợi, trừ khi người yêu cầu đã quen với các điều khoản như thế... Dự thảo quy định bổ sung thêm trách nhiệm của  NHPH và sửa đổi như sau:

Người yêu cầu và NHPH nên hiểu đầy đủ nội dung của UCP 600 và nên biết rằng các điều 3, 14, 9, 20, 21, 23, 24, 28(i), 30 và 31 giải thích các điều khoản mà theo cách giải thích đó có thể tạo ra những kết quả không mọng đợi…

ISBP 681 quy định L/C không nên yêu cầu chứng từ xuất trình chứng từ do người yêu cầu phát hành, ký hoặc ký đối chứng; nếu L/C được phát hành có quy định điều khoản như thế thì người thụ hưởng phải yêu cầu sửa đổi hoặc tuân theo và chịu rủi ro nếu không thể thực hiện được điều khoản đó. Dự thảo bổ sung thêm sửa đổi L/C và quy định lại như sau:
L/C không nên yêu cầu chứng từ xuất trình chứng từ do người yêu cầu phát hành, ký hoặc ký đối chứng. Tuy nhiên, nếu L/C hoặc sửa đổi L/C được phát hành có yêu cầu như thế, thì người thụ hưởng nên cân nhắc sự thích hợp của việc yêu cầu chứng từ như thế và xác định khả năng tuân theo yêu cầu đó, hoặc yêu cầu một sửa đổi thích hợp.
 
MỘT SỐ ĐIỂM MỚI LIÊN QUAN ĐẾN CÁC NGUYÊN TẮC CHUNG 

            Ở phần giải thích các chữ viết tắt, Dự thảo quy định bổ sung:

            Nếu L/C sử dụng chữ viết tắt, thì chứng từ xuất trình có thể sử dụng chữ viết tắt hoặc thể hiện từ đánh vần đầy đủ.

            Đối với ký hiệu “/”, Dự thảo bổ sung thêm ví dụ để làm rõ nghĩa:

            Nếu L/C quy định “màu đỏ/màu đen/màu xanh” mà không có giải thích thêm thì có nghĩa là chỉ màu đỏ hoặc chỉ màu đen hoặc chỉ màu xanh hoặc bất kỳ sự kết hợp giữa các màu.

             Các chứng nhận và lời khai 
            
             Liên quan đến quy định các chứng nhận và lời khai (Certifications and Declarations), Dự thảo  quy định tương tự như ISBP 681 nhưng tách ra làm 3 đoạn và bổ sung ví dụ để làm rõ ý nghĩa:

(i)        Chứng nhận hoặc lời khai phải được ký;

(ii)        Chứng nhận và lời khai có phải ghi ngày hay không phụ thuộc vào loại chứng nhận hoặc lời khai được yêu cầu, từ ngữ yêu cầu và từ ngữ thể hiện trong chứng từ.  Ví dụ, L/C yêu cầu xuất trình chứng nhận của người thụ hưởng chứng nhận chứng từ đã được gửi đi trong vòng 7 ngày sau ngày giao hàng và chứng nhận của người thụ hưởng xuất trình  có ghi như vậy thì không cần phải ghi ngày;

(iii)        Nếu chứng nhận hoặc lời khai nằm trong chứng từ khác đã ký và ghi ngày thì chứng nhận và lời khai không cần phải có chữ ký và ghi ngày nữa.

             Ngày, tháng

             So với ISBP 681, Dự thảo quy định chi tiết hơn về ngày, tháng của hối phiếu, chứng từ bảo hiểm và chứng từ vận tải, cụ thể như sau:

             Ngay cả khi L/C không yêu cầu như vậy một cách rõ ràng, thì:

(i)        các hối phiếu cũng phải ghi ngày phát hành;

(ii)       các chứng từ bảo hiểm phải ghi ngày phát hành hoặc  hiệu lực của bảo hiểm;

(iii)      các chứng từ vận tải, tuân thủ theo các điều 19-25 UCP 600, phải ghi ngày phát hành, ghi chú bốc hàng lên tàu cùng ngày giao hàng, ngày nhận hàng để giao (a date of receipt for shipment), ngày gửi hàng hoặc vận chuyển (a date of dispatch or carriage), ngày nhận hàng để chở (a date of taking in charge) hoặc ngày nhận (a date of pick up or of receipt) theo yêu cầu của các điều tương ứng.

             Dự thảo bổ sung thêm quy định: 

             Việc một chứng từ có một ô, trường hay chỗ để điền các dữ liệu, thì không nhất thiết có nghĩa rằng ô, trường hoặc chỗ đó phải được điền các dữ liệu. Ví dụ, người ta không yêu cầu phải điền các dữ liệu vào ô “Thông tin kế toán” (accounting inforrmation) hoặc “Thông tin xử lý” (handling information) thường thấy trên vận đơn đường không.

          Các thuật ngữ không được định nghĩa trong UCP

             So với ISBP 681 Dự thảo bổ sung thêm hai thuật ngữ:

(i)     “Shipping company” (công ty vận tải biển) - trong ngữ cảnh là người phát hành chứng nhận hay lời khai - là một bên bất kỳ khác với người thụ hưởng bất kể họ đã hay không phát hành hoặc ký chứng từ vận tải được xuất trình; và

(ii)    “Documents acceptable as presented “ (có thể chấp nhận các chứng từ như được xuất trình)  là một xuất trình có thể bao gồm tất cả hoặc một số các chứng từ quy định miễn là chúng được xuất trình trong thời hạn hiệu lực quy định trong L/C và số tiền thanh toán nằm trong giá trị L/C. Các chứng từ đó sẽ không được kiểm tra sự phù hợp theo UCP 600 bao gồm chúng có được xuất trình đúng số lượng bản gốc hay bản sao theo yêu cầu hay không.

             Ngôn ngữ của chứng từ

             ISBP 681 quy định các chứng từ do người thụ hưởng phát hành phải bằng ngôn ngữ của L/C. Nếu L/C quy định có thể chấp nhận chứng từ phát hành bằng hai hoặc nhiều ngôn ngữ, thì ngân hàng chỉ định, khi thông báo L/C có thể hạn chế số lượng ngôn ngữ có thể chấp nhận như là một điều kiện cam kết trong L/C. Dự thảo sửa đổi quy định về ngôn ngữ của chứng từ như sau:

(i)        Khi L/C không quy định về ngôn ngữ của chứng từ, thì chứng từ có thể được phát  hành bằng bất kỳ ngôn ngữ nào;

(ii)       Khi L/C không quy định về ngôn ngữ của chứng từ hoặc cho phép hai hoặc nhiều hơn ngôn ngữ có thể chấp nhận, thì ngân hàng xác nhận hoặc ngân hàng được chỉ định hành động theo sự chỉ định có thể giới hạn ngôn ngữ hoặc số lượng ngôn ngữ có thể chấp nhận như là một điều kiện cam kết trong L/C và dữ liệu chỉ được lập bằng ngôn ngữ hoặc các ngôn ngữ có thể chấp nhận;

(iii)      Khi L/C quy định ngôn ngữ của chứng từ xuất trình, thì dữ liệu điền vào chứng từ phải là bằng ngôn ngữ đó. Tuy nhiên,  tên người, tổ chức, dấu đóng,  xác nhận tính pháp lý, ký hậu và nội dung in sẵn trên chứng từ, chẳng hạn nhưng không hạn chế các tiêu đề,  có thể bằng một ngôn ngữ khác với ngôn ngữ được yêu cầu.

              Quy định của Dự thảo khác ISBP ở hai điểm:

 (i)        Nếu L/C không quy định ngôn ngữ của chứng từ thì chứng từ, bao gồm cả chứng từ phát hành bởi người thụ hưởng, có thể được lập bằng bất kỳ ngôn ngữ nào;

(ii)        Ngay cả L/C có quy định ngôn ngữ của chứng từ  thì điều đó chỉ áp dụng đối với dữ liệu sẽ điền vào biểu mẫu chứng từ, chứ không áp dụng đối với tiêu đề in sẵn, nội dung in sẵn,  tên hay tổ chức, dấu đóng, lời chứng nhận pháp lý, ký hậu  hoặc nội dung tương tự.

             Thực tế cho thấy để thuận tiện cho việc kiểm tra sự phù hợp của chứng từ,  một số ngân hàng, bao gồm cả ngân hàng ở Việt Nam, khi phát hành L/C thường quy định tất cả các chứng từ phải được phát hành bằng tiếng Anh (All documents must be made in English). Tuy nhiên, cần lưu ý rằng cho dù L/C quy định như vậy nhưng theo điểm (ii) trên đây, có thể chấp nhận  một chứng từ, ví dụ, một chứng nhận xuất xứ do Phòng Thương mại và Công nghiệp Ý phát hành với các tiêu đề in sẵn bằng tiếng Ý miễn là các dữ liệu yêu cầu, ví dụ, mô tả hàng hóa, điền vào mẫu chứng nhận xuất xứ đó phải được được thể hiện bằng tiếng Anh phù hợp với điều khoản của L/C.

            Bản gốc và bản sao

            Về số lượng bản gốc phải xuất trình, ISBP 681 quy định chứng từ nói chung, trong khi Dự thảo nêu đích danh chứng từ vận tải, chứng từ bảo hiểm và hối phiếu phải xuất trình đúng số lượng bản gốc nêu trên các chứng từ đó trừ phi L/C yêu cầu khác.

           Dự thảo cũng bổ sung thêm ví dụ minh họa để xác định L/C yêu cầu bản gốc hay bản sao:

           Nếu L/C yêu cầu xuất trình “photocopy of a signed invoice” (bản photocopy của một hóa đơn đã ký), thì yêu cầu này sẽ được thỏa mãn bằng cách xuất trình hoặc là một bản photocopy hoặc bản sao thể hiện là một bản photocopy hoặc bản sao của hóa đơn gốc được ký rõ ràng bởi hoặc thay mặt người phát hành hoặc, nếu không cấm, một hóa đơn gốc đã ký.


            Các chữ ký


            Dự thảo bổ sung quy định:

            Nếu người ký ghi là ký thay mặt (for or on behalf of)  một chi nhánh của người phát hành, thì chữ ký đó được xem là chữ ký của người phát hành.

            Tên của chứng từ và các chứng từ kết hợp

            Dự thảo bổ sung quy định:

            Một chứng từ được L/C yêu cầu thể hiện nhiều hơn một chức năng có thể được xuất trình bằng một chứng từ hoặc bằng các chứng từ riêng biệt thể hiện hoàn thành từng chức năng. Ví dụ, L/C yêu cầu xuất trình một Chứng nhận Chất lượng và Số lượng sẽ được thỏa mãn bằng cách xuất trình một chứng từ hoặc bằng một Chứng nhận Chất lượng và một Chứng nhận Số lượng miễn là từng chứng từ đều thể hiện chức năng của nó và được xuất trình đúng số lượng bản gốc và bản sao theo yêu cầu của L/C.

             MỘT SỐ ĐIỂM MỚI LIÊN QUAN ĐẾN HỐI PHIẾU  

          Vấn đề hối phiếu có phải là chứng từ được yêu cầu xuất trình theo L/C hay không và sai sót trên hối phiếu có cấu thành lý do để từ chối thanh toán hay không đã trở thành một chủ đề tranh cãi chưa có hồi kết thúc bởi mặc dù ISBP có quy định về hối phiếu và cách tính ngày đáo hạn nhưng không khẳng định hối phiếu có phải là chứng từ xuất trình theo L/C và sai sót trên hối phiếu có cấu thành lý do để ngân hàng từ chối thanh toán.

             Để giải quyết dứt khoát vấn đề này Dự thảo sửa đổi ISBP lần này đã khẳng định hối phiếu ký phát đòi tiền ngân hàng phát hành là công cụ tài chính và được xem như là một phần của yêu cầu về chứng từ của L/C trong chừng mực liên quan đến kỳ hạn, ngày đáo hạn,  số tiền, ký hậu… Tuy nhiên, Dự thảo cũng khẳng định những sai sót trên hối phiếu không liên quan đến kỳ hạn, ngày đáo hạn,  số tiền, ký hậu…  không làm cho phiếu bất hợp lệ.

            MỘT SỐ ĐIỂM MỚI LIÊN QUAN ĐẾN VỀ HÓA ĐƠN 

            Người phát hành hóa đơn

            ISBP 681 không có quy định hướng dẫn về người phát hành hóa đơn. Dự thảo bổ sung thêm quy định này nhằm làm rõ Điều 18(a)(i) UCP 600 quy định về người phát hành hóa đơn. Theo đó, hóa đơn phải được phát hành bởi người thụ hưởng, hoặc bởi người thụ hưởng thứ hai trong trường hợp L/C đã được chuyển nhượng. Khi người thụ hưởng hoặc người thụ hưởng thứ hai có thay đổi tên và L/C vẫn ghi tên cũ, thì hóa đon có thể được phát hành bằng tên công ty mới miễn là có nêu “trước đây được gọi là [tên  của người thụ hưởng thứ nhất hoặc người thụ hưởng thứ hai] hoặc bằng từ ngữ có ý nghĩa tương tự.

            Thanh toán hoặc giao hàng nhiều lần

            Tại các đoạn quy định về hóa đon, ISBP 681 chỉ quy định ngắn gọn về việc giao hàng nhiều lần “nếu L/C yêu cầu giao hàng nhiều lần, thì mỗi lần giao hàng phải phù hợp với lịch trình giao hàng”. Dự thảo  bổ sung thêm quy định về thanh toán nhiều lần, chi tiết như sau:

(i)        Nếu việc thanh toán và giao hàng nhiều lần trong các khoản thời gian được quy định trong L/C, và bất kỳ lần giao hàng nào không được thanh toán hoặc không được thực hiện trong khoản thời gian cho phép đối với lần giao hàng đó, thì L/C không còn giá trị thanh toán cho lần giao hàng đó và cho bất kỳ lần giao hàng nào sau đó.  Các khoản thời gian là  lịch trình ngày tháng bao gồm ngày bắt đầu và ngày kết thúc cho mỗi lần giao hàng.

(ii)        Khi giao hàng từng phần được phép thì cho phép giao hàng nhiều lần trong mỗi lần giao hàng.

(iii)       Khi L/C quy định lịch trình thanh toán và giao hàng bằng cách chỉ ghi một số ngày chậm nhất, chứ không gi một khoản thời hạn quy định, thì đó không phải là lịch trình giao hàng nhiều lần như theo quy định của UCP 600 và Điều 32 sẽ không áp dụng.  Việc xuất trình  sẽ phải tuân thủ chỉ thị  liên quan đến lịch trình và Điều 31 UCP 600.

(iv)       Khi thanh toán và giao hàng từng phần được phép, thì bất kỳ số lần thanh toán hoặc giao hàng vào ngày trước hoặc mỗi ngày thanh toán hoặc giao hàng là được phép.

             Rõ ràng với quy định như trên của Dự thảo giúp người kiểm tra chứng từ có thể phân biệt được rõ trường hợp nào là thanh toán và giao hàng từng phần và trường hợp nào là thanh toán và giao hàng nhiều lần được quy định tại  Điều 31 và 32 UCP 600 vốn rất dễ gây hiểu nhầm.   

             MỘT SỐ ĐIỂM MỚI LIÊN QUAN ĐẾN CÁC CHỨNG TỪ VẬN TẢI ĐƯỢC QUY ĐỊNH TẠI CÁC ĐIỀU 19-25 UCP 600      

            Ghi chú bốc hàng lên tàu 

            So với ISBP 681, Dự thảo quy định về ghi chú đã bốc hàng lên tàu (on board notation) rất chi tiết phù hợp với đề xuất của Ủy ban Ngân hàng liên quan đến các yêu cầu đối với ghi chú đã bốc hàng tại Văn bản số 470/1128rev final – 22/4/2010 (Document No.470/1128rev final – 22 April 2010 – Recommendations of the Banking Commission in respect of the Requirements  for an On Board Notation), cụ thể như sau:

(i)        Khi một vận đơn in sẵn “shipped on board” (đã bốc hàng lên tàu) được xuất trình, thì ngày phát hành được xem là ngày giao hàng trừ phi vận đơn có một ghi chú đã bốc hàng lên tàu riêng biệt có ghi ngày, trong trường hợp này ngày thể hiện trên ghi chú đã bốc hàng lên tàu được xem là ngày giao hàng cho dù ngày bốc hàng lên tàu xảy ra trước hoặc sau ngày phát hành vận đơn.

(ii)        Khi một vận đơn ghi nơi nhận hàng giống với cảng bốc hàng, ví dụ, nơi nhận hàng là Bãi container Rotterdam CY và cảng bốc hàng là Rotterdam và không ghi phương tiện vận tải chặng đầu (hoặc ở trường phương tiện vận tải chặng đầu hoặc ở trường nơi nhận hàng) thì:

- khi một vận đơn được in sẵn “đã bốc hàng lên tàu” (shipped on board), thì ngày phát hành được xem như ngày giao hàng và  không cần có thêm một ghi chú đã bốc lên tàu.

- khi một vận đơn được in sẵn “đã nhận hàng để giao” (received for shipment), thì yêu cầu phải có một ghi chú đã bốc hàng lên tàu có ghi ngày và ngày thể hiện trong ghi chú này được xem như ngày giao hàng.

(iii)        Khi một vận đơn ghi nơi nhận hàng khác với cảng bốc hàng, ví dụ, nơi nhận hàng là Amsterdam và cảng bốc hàng là Rotterdam và không ghi phương tiện vận tải chặng đầu (hoặc ở trường  phương tiện vận tải chặng đầu hoặc ở trường nơi nhận hàng) thì:     

 - khi một vận đơn được in sẵn “đã bốc hàng lên tàu” (shipped on board), thì ngày phát hành được xem như ngày giao hàng và  không cần có thêm một ghi chú đã bốc hàng lên tàu.

- khi một vận đơn được in sẵn “đã nhận hàng để giao” (received for shipment), thì yêu cầu phải có một ghi chú đã bốc lên tàu có ghi ngày và ngày thể hiện trong ghi chú này được xem như ngày giao hàng.

(iv)        Khi một vận đơn ghi nơi nhận hàng khác với cảng bốc hàng, ví dụ, nơi nhận hàng là Amsterdam và cảng bốc hàng là Rotterdam và có ghi phương tiện vận tải chặng đầu (hoặc ở trường phương tiện vận tải chặng đầu hoặc ở trường nơi nhận hàng) và cho dù vận đơn có in sẵn “đã bốc hàng lên tàu” hoặc “đã nhận hàng để giao” hay không, vận đơn đó phải có một ghi chú đã bốc hàng lên tàu có ghi ngày, nêu tên tàu và cảng bốc hàng. Ngày thể hiện trong ghi chú này được xem như ngày giao hàng.

(iv)        Khi một vận đơn có thể hiện từ ngữ như “Khi ô nơi nhận hàng được điền thông tin thì bất kỳ ghi chú nào trên vận đơn này như  “on board” hoặc”loaded on board” (đã bốc hàng lên tàu), hoặc bằng từ ngữ có ý nghĩa tương tự, sẽ được xem là đã bốc hàng lên phương tiện  vận tải thực hiện vận tải từ nơi nhận hàng đến cảng bốc hàng” hoặc thể hiện  từ ngữ có ý nghĩa tương tự và ô nơi nhận hàng được điền thông tin, thì vận đơn phải có một ghi chú đã bốc hàng lên tàu có ghi ngày cùng tên tàu và cảng bốc hàng. Ngày thể hiện trong ghi chú này được xem như ngày giao hàng.

(v)        Khi cảng bốc hàng đích danh, theo yêu cầu của L/C, phải được ghi ở ở trường cảng bốc hàng trên vận đơn, thay vào đó nó có thể được ghi ở trường có tiêu đề là “nơi nhận hàng” hoặc từ ngữ có ý nghĩa tương tự, nếu hàng hóa rõ ràng đã được vận chuyển từ nơi nhận hàng bằng tàu, và miễn là có một ghi chú đã bốc lên tàu chứng minh hàng hóa đã được bốc lên con tàu đó tại cảng được ghi ở trường “Nơi nhận hàng” hoặc bằng từ ngữ có ý nghĩa tương tự.

             Ghi chú đã bốc lên tàu áp dụng đối với vận đơn đường biển, vận đơn theo hợp đồng thuê tàu. Đối với chứng từ vận tải đa phương thức, nếu L/C quy định việc giao hàng được thực hiện từ một cảng, tức là, ở chặng đầu của hành trình theo yêu cầu của L/C, là bằng đường biển, thì chứng từ vận tải đa phương thức cũng phải thể hiện một ghi chú bốc hàng lên tàu có ghi ngày.

             Tên quốc gia, tên cảng trên vận đơn

            Dự thảo cũng quy định tên quốc gia không cần phải xuất hiện trên chứng từ vận tải cho dù L/C có quy định tên quốc gia kèm theo nơi gửi hàng, nơi nhận hàng hoặc cảng bốc hàng, cảng dỡ hàng, nơi đến cuối cùng.

             Đối với vận đơn hàng không, Dự thảo quy định cho phép ghi tên cảng đi và cảng đến bằng cách sử dụng mã IATA (International Air Traffic Association) thay vì sử dụng tên đầy đủ của cảng hàng không (ví du, LAX thay vì Los Angles).

             Người nhận hàng, bên thông báo

            Liên quan đến thông tin về người nhận hàng (consignee) và bên thông báo (notify party) trên các chứng từ vận tải, ngoài những quy định tương tự như ISBP 681, Dự thảo quy định bổ sung như sau:

            Khi L/C quy định chi tiết bên thông báo (notify party), chứng từ vận tải cũng có thể thể hiện chi tiết của một hoặc thêm nhiều bên thông báo.

            Khi L/C không có yêu cầu một bên thông báo thể hiện trên chứng từ vận tải nhưng chi tiết về người yêu cầu lại thể hiện là bên thông báo, và những chi tiết này bao gồm các chi tiết về địa chỉ và các chi tiết liên hệ, thì chúng không được mâu thuẫn với các chi tiết được nêu trong L/C.

            Khi L/C yêu cầu chứng từ vận tải thể hiện hàng hóa “được gửi cho người yêu cầu” (consigned to  the applicant) hoặc thông báo cho “người yêu cầu” (applicant), thì chứng từ không cần phải thể hiện chi tiết về địa chỉ và chi tiết liên lạc của người yêu cầu. Khi  các chi tiết về địa chỉ và chi tiết liên lạc của người yêu cầu thể hiện là một phần của các chi tiết về người nhận hàng hoặc bên thông báo, thì chúng không được mâu thuẫn với các chi tiết được nêu trong L/C.

            MỘT SỐ ĐIỂM MỚI LIÊN QUAN ĐẾN CHỨNG TỪ BẢO HIỂM

            Người phát hành bảo hiểm

            Ngoài những quy định tương tự như ISBP 681, Dự thảo cho thêm ví dụ minh họa để làm rõ người phát hành bảo hiểm.

             Một chứng từ bảo hiểm phải được phát hành hoặc ký bởi một công ty bảo hiểm hoặc người bảo hiểm (underwriter) hoặc đại lý của họ hoặc người được ủy quyền (proxy) của họ. Ví dụ, một chứng từ bảo hiểm được phát hành và ký bởi  “AA Insurance Ltd”  xem như đã được ký bởi một công ty bảo hiểm.

             Một bảo hiểm được ký bởi một đại lý hay người được ủy quyền phải ghi  tên công ty bảo hiểm hoặc người bảo hiểm mà đại lý hoặc người được ủy quyến thay mặt để ký, trừ phi tên công ty bảo hiểm hoặc người bảo hiểm đã được nhận biết ở đâu đó trên chứng từ bảo hiểm. Ví dụ, khi  tên “AA Insurance Ltd” đã  được nhận biết trên chứng từ bảo hiểm là người  bảo hiểm , thì chứng từ có thể ký “John Doe (by proxy) on behalf of the issuer” (John Doe - thừa ủy quyền - thay mặt cho người  bảo hiểm).

            Một bảo hiểm có thể được phát hành và ký bởi một người bảo hiểm thay mặt cho một hay nhiều người đồng bảo hiểm (co-insurers). Ví dụ, khi chứng từ được ký “AA Insurance Ltd, leading insurer for and on behalf of co-insurers” (AA Insurance Ltd, người bảo hiểm đầu mối thay mặt cho những người đồng bảo hiểm), thì chứng từ bảo hiểm không cần thể hiện tên những người đồng bảo hiểm.

            Một bảo hiểm có thể thể hiện chỉ tên thương mại/tên giao dịch (trade name) của công ty bảo hiểm ở trường ký tên miễn là tên đó được nhận biết là tên công ty bảo hiểm ở nơi khác trên chứng từ (ví dụ, ở phần chân (footer) của chứng từ). Ví dụ, khi chứng từ bảo hiểm được phát hành và ký “AA”  ở trường ký tên nhưng thể hiện “AA Insurance Ltd” [địa chỉ], [thông tin liên lạc] ở phần chân của chứng từ. 

            Phù hợp với Điều28 (b) UCP 600, Dự thảo bổ sung quy định về trường hợp chứng từ bảo hiểm được phát hành hoặc ghi rõ rằng nó đã được phát hành nhiều hơn một bản gốc thì tất cả các bản gốc phải được xuất trình và đã được ký. 

            Ngày, tháng

            Về ngày hiệu lực của chứng từ, ISBP 681 quy định không rõ ràng nên dễ dẫn đến phát sinh tranh chấp liên quan đến vấn đề này. Dự thảo quy định chi tiết liên quan đến ngày, tháng  của chứng từ bảo hiểm như sau:

            Một chứng từ bảo hiểm không được  ghi ngày chấm dứt hiệu lực xuất trình yêu cầu đòi bồi thường bảo hiểm.

            Một chứng từ bảo hiểm không được ghi rằng bảo hiểm có hiệu lực trễ hơn ngày giao hàng.

            Khi một chứng từ bảo hiểm ghi ngày phát hành trễ hơn ngày giao hàng, thì nó phải ghi rõ rằng bảo hiểm có hiệu lực kể từ ngày giao hàng bằng cách ghi thêm hoặc ghi chú:

(i)        rằng bảo hiểm có hiệu lực từ ngày giao hàng; hoặc

(ii)       rằng bảo hiểm “bảo hiểm được thực hiện trên cơ sở từ kho đến kho “ (coverage is effected from warehouse to warehouse basis) hoặc từ ngữ có ý nghĩa tương tự.

             Trường hợp chứng từ bảo hiểm không ghi bất kỳ ngày nào thể hiện đó là ngày phát hành hoặc ngày hiệu lực của bảo hiểm, thì ngày ký đối ứng (countersignature date) sẽ được xem là ngày hiệu lực của bảo hiểm.

             Số tiền bảo hiểm 

            Dự thảo quy định bổ sung: “Không có yêu cầu đối với phạm vi bảo hiểm phải được tính đến nhiều hơn hai số thập phân”. 

            Dự thảo cũng quy định cho phép phạm vi bảo hiểm có thể được thể hiện bằng hai chứng từ bảo hiểm riêng biệt hoặc hoặc nhiều hơn miễn là  tổng số tiền của các chứng từ bảo hiểm tương ứng it nhất phải bằng số tiền bảo hiểm được yêu cầu tại Điều 28(f)(ii) UCP 600. 


            Liên quan đến yêu cầu ký hậu bảo hiểm, Dự thảo quy định rõ hơn:

            Chứng từ bảo hiểm phải được phát hành hoặc ký hậu để quyền nhận tiền bồi thường được thực hiện vào hoặc trước khi chuyển giao các chứng từ. Do vậy, khi L/C không quy định đối với bên được bảo hiểm, thì chứng từ bảo hiểm ghi các yêu cầu bồi thường sẽ trả theo lệnh của người gửi hàng, người thụ hưởng L/C hoặc đại lý được ủy quyền của người thụ hưởng, người gửi hàng hoặc một đơn vị nêu đích danh,  chứng từ bảo hiểm phải được ký hậu bởi những người đó.

             Phí bảo hiểm

            ISBP 681 không có quy định về phí bảo hiểm. Dự thảo bổ sung quy định về phí bảo hiểm như sau:

            Trừ phi chứng từ bảo hiểm nêu rõ rằng phí bảo hiểm chưa được thanh toán, bất kỳ dẫn chiếu nào trên chứng từ liên quan đến việc thanh toán phí bảo hiểm sẽ không được xem xét.


            MỘT SỐ ĐIỂM MỚI LIÊN QUAN ĐẾN CHỨNG NHẬN XUẤT XỨ

            Yêu cầu cơ bản và việc hoàn thành chức năng

            ISBP 681 quy định chung chung rằng yêu cầu đối với một chứng nhận xuất xứ sẽ được thỏa mãn bằng việc xuất trình một chứng từ, có ghi ngày, tháng và chữ ký, chứng nhận xuất xứ của hàng hóa. Dự thảo sửa đổi quy định này rõ hơn như sau:

(i)        Khi L/C yêu cầu xuất trình một chứng nhận xuất xứ, điều này sẽ được thỏa mãn bằng việc xuất trình một chứng từ đã ký bao gồm một GSB Form A, EUR.1 hoặc tương tự như vậy, thể hiện có liên quan đến hàng hóa trên hóa đơn và chứng nhận xuất xứ của chúng.

(ii)        Khi L/C yêu cầu xuất trình một mẫu (form) chứng nhận xuất xứ cụ thể chẳng hạn như một GSP Form A, EUR.1, thì chứng từ xuất trình phải theo form được yêu cầu.


            Nội dung của chứng nhận xuất xứ

            Dự thảo quy định bổ sung:

            Một chứng nhận xuất xứ có thể ghi số hóa đơn, ngày hóa đơn và hành trình giao hàng khác với một hay nhiều chứng từ quy định cùng được một lần xuất trình, miễn là nhà xuất khẩu hoặc người gửi hàng thể hiện trên chứng nhận xuất xứ không phải là người thụ hưởng đã phát hành hóa đơn xuất trình theo L/C. 

            KẾT LUẬN

            Như đã nêu ở phần mở đầu, có thể còn quá sớm để nêu ra những điểm mới của ISBP vào thời điểm này bởi đây mới chỉ là bản dự thảo sửa đổi thứ ba. Chắc chắn tại cuộc họp của  Ủy ban Ngân hàng ICC tại Doha, Qatar vào tháng 3/2012 các chuyên gia sẽ còn góp ý sửa đổi, bổ sung. Người viết bài này sẽ cố gắng thông tin cho bạn đọc khi bản dự thảo sửa đổi ISBP cuối cùng chính thức được thông qua./.

            As presented in the introduction part, it’s too early to point out new amendments of the draft ISBP because this is the thirdly revised version. The discussion of ICC Banking Commission made a decision to revise ISBP 681 at the ICC Banking Commission meeting held in Qatar in March 2012, the revised version which shall be surely further commented/ implemented by experts.  A writer will keep you updated when the final amended ISBP is available.

- Tải về/ Download: ISBP 681, English version